TRƯỞNG LÃO AÑÑAKOṆḌAÑÑA
VỊ ĐỆ TỬ ĐẦU TIÊN CỦA ĐỨC PHẬT
Trăng tròn tháng Āsaḷha cách đây 2603 năm, tại vườn Nai (Migadāya)
nơi Isipattana, đức Thế Tôn đã thuyết giảng bài pháp đầu tiên để tế độ cho năm
anh em nhóm ngài Koṇḍañña
(Kiều-Trần-Như). Lịch sử và ý nghĩa của ngày lễ Rằm tháng sáu Āsaḷha đã
được biết đến nhiều qua các bài giảng và bài viết của các vị Giảng sư. Đặc biệt
trong bài viết này, chúng tôi xin được tìm lại, viết lại và tưởng niệm lại ân đức
của vị Tỳ-khưu đầu tiên trong Phật giáo. Chính ngày hôm nay là ngày kỷ niệm của
vị Trưởng lão khả kính được chính thức bước vào đời sống phạm hạnh của một vị Thánh
tu sĩ Phật giáo. Vị trưởng lão khả ái khả kính đó chính là ngài Tôn giả Aññakoṇḍañña,
là vị đệ tử đầu tiên của đức Phật, là vị Tỳ-khưu đầu tiên trong Giáo hội Tăng già,
vị Thánh tăng đầu tiên trong Phật giáo. Dĩ nhiên, ngài được quả vị như thế
không phải do thế tôn ban tặng mà chính tự ngài đã nỗ lực tu tập, vun trồng Ba-la-mật
từ muôn vàn kiếp trong quá khứ. Và nhân dịp này, chúng ta cùng nhau tưởng niệm
lại công hạnh của ngài thông qua lịch sử về cuộc đời Tôn giả Aññakoṇḍañña.
1. Gia thế :
Trưởng lão là con trai của một gia đình
trưởng giả giàu có ở tại Doṇavathhu, gần
Kapilavatthu, kinh đô của đức vua Suddhodana. Tên
thật của Ngài không phải là
Koṇḍañña, mà Koṇḍañña
chỉ là tên dòng
tộc của Ngài. Ngài vừa thuộc dòng
tộc Bà-la-môn và cũng
vừa thuộc dòng Sát-đế-lỵ.
Từ thuở nhỏ, Ngài đã
trở nên nổi tiếng thông minh vì đã
thông thuộc nằm lòng tam Vệ-đà
của Bà-la-môn giáo,
chẳng những thế mà Ngài cũng
rất giỏi về xem tướng số. Ngài được duyên
lành là trở thành
một vị Bà-la-môn trẻ nhất trong số tám vị Bà-la-môn[1]
đến xem tướng và đặt tên
cho thái tử. vì sự kiện này nên có thể biết rằng tuổi
của tôn giả cao hơn nhiều so với đức thế tôn.
2. Duyên lành xuất gia :
Vào ngày thứ năm kể từ lúc Thái
tử đản sanh, đức vua Suddhodana (Tịnh Phạn) đã
cho mời 108 vị Bà-la-môn thông
suốt tam Vệ-đà vào hoàng
cung để tham dự lễ Quán đỉnh
cho Thái tử. Từ 108 vị Bà-la-môn
ấy chọn ra tám vị để xem tướng và đặt
tên cho Thái tử.
Sau khi xem xét kỹ các tướng hảo trên
thân của Thái tử, có
bảy vị đã đồng loạt nhất trí đưa
lên hai ngón tay và
tiên tri như sau: “Nếu
sống tại gia đình, vị này sẽ trở thành vua Chuyển luân Thánh vương, dùng chánh
pháp trị nước, bình định bốn phương, đem lại an toàn cho quốc độ, đầy đủ bảy
món báu. Bảy món báu trở thành vật sở hữu của vị này, tức là xe báu, voi báu,
ngựa báu, ngọc báu, nữ báu, gia chủ báu và thứ bảy là tướng quân báu. Vị này có
đến hơn một ngàn thái tử, những bậc anh hùng, lực sĩ, chinh phục quân thù. Vị
này chinh phục cõi đất này cho đến hải biên và trị nước với chánh pháp, không
dùng trượng, không dùng đao. Nếu vị này từ bỏ gia đình, xuất gia sống không gia
đình, vị này sẽ thành bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác, vén lui màn vô minh che đời”.[2]
Tuy nhiên, chỉ có Koṇḍañña
là vị Bà-la-môn
trẻ tuổi nhất trong tám vị chỉ giơ một ngón
tay lên và khẳng định
rằng: “Thái
tử sẽ xuất gia và trở thành
bậc Chánh Đẳng
Giác”.
Sau buổi lễ quán đỉnh , tám
vị Bà-la-môn vì xác định
rằng Thái tử sau này sẽ trở thành
một vị Phật Chánh Đẳng Giác
nên đã
hội họp với nhau và quyết định : khi Thái
tử đi xuất gia, mỗi gia đình
sẽ cho một người đi xuất gia theo Ngài.
Vào năm thái tử 29 tuổi, khi hay tin đã
Thái tử rời bỏ cung vàng
điện ngọc để ra đi
tìm con đường giải thoát,
Bà-la-môn trẻ nhất năm xưa đã tìm đến
gia đình bảy vị kia để thông
báo và cùng
nhau đi xuất gia. Tuy nhiên,
trong bảy gia đình chỉ có bốn gia đình
cho phép con cái của họ đi
xuất gia; cộng thêm Ngài Koṇḍañña
nữa cùng nhau đi xuất gia nên
gọi là nhóm năm
(Pañcavaggiya) anh em Kiều-Trần-Như (Koṇḍañña).
Tên của bốn vị còn lại là
Vappa, Bhaddiya, Mahānāma và
Assaji.
Cả năm vị cùng với bồ tát
tu khổ hạnh suốt sáu năm tại rừng Uruvela. Nhưng vì đường
lối thực hành khổ hạnh chẳng đem
đến kết quả lợi ích gì
cho việc giải thoát nên bồ tát
quyết định từ bỏ đường lối cực đoan
này. Năm vị đạo
sĩ đồng tu thấy bồ tát
không tu khổ hạnh nữa mà đã dùng
vật thực trở lại nên nghĩ rằng “Sa-môn
Gotama đã thực hành
lợi dưỡng, vị ấy đã từ bỏ pháp
tu và quay trở lại sự tích
lũy vật chất”,
năm vị đạo sĩ
nghĩ như thế nên đã
từ bỏ đức bồ tát để đi đến
Isipatana tiếp tục tu tập khổ hạnh.
Sau khi đạt đến quả vị giải thoát,
đức Phật vì lòng
thương tưởng chúng sanh nên đã
chấp nhận lời thỉnh cầu vận chuyển bánh xe Pháp,
đem đến con đường
bất tử cho chúng sanh hữu duyên hữu phần. Ngài
nhớ đến năm anh em đạo
sĩ đồng tu thuở trước nên đã đi
từ Bodhgaya đến Isipatana để vận chuyển Pháp
luân, thuyết bài pháp đầu
tiên để tế độ
cho năm anh em đạo sĩ này.
Khi đức Thế Tôn đã
vận chuyển bánh xe Pháp, vừa dứt xong thời pháp
thì Ngài Koṇḍañña đã đắc
quả Dự-lưu. Là vị Thánh đệ
tử đầu tiên trong Giáo
Pháp của đức Phật. Đức
Phật đã tán dương Ngài
Koṇḍañña như sau: “Aññāsi
vata bho koṇḍañño, aññāsi
vata bho koṇḍañño –
Kiều Trần Như đã hiểu pháp,
Kiều Trần Như đã hiểu pháp”[3].
Chính vì lời tuyên
bố đó của đức Thế Tôn
nên từ đó
về sau mọi người gọi Ngài Koṇḍañña
là Aññātakoṇḍañña,
Aññāsikoṇḍañña
hay là Aññakoṇḍañña
(A-Nhã-Kiều-Trần-Như).
Khi đã an trú được trong Thánh quả Tu-đà-huờn,
Ngài Koṇḍañña đã đến
xin đức Phật để được
xuất gia và đức Phật đã
tuyên bố rằng: “Ehi
bhikkhu svākkhāto
dhammo, cara brahmacariyaṃ sammā
dukkhassa antakiriyāya – Này
tỳ khưu, hãy đến.
Pháp đã được
khéo thuyết giảng, hãy
thực hành Phạm hạnh một cách
đúng đắn
để chấm dứt khổ đau”.[4]
Liền sau khi đức Phật tuyên bố thì râu
tóc của Ngài Koṇḍañña
biến mất, vị ấy trở thành một vị Tỳ-khưu nghiêm
trang thanh tịnh với oai nghi của một vị trưởng lão 60 tuổi hạ. Chính
vì lý do này,
Tôn giả Koṇḍañña
trở thành vị Tỳ-khưu đầu
tiên trong Phật giáo và
cũng là vị đầu tiên xuất gia Tỳ-khưu
bằng hình thức “Ehi
bhikkhu – Thiện lai Tỳ-khưu”.
Nếu tính theo thời gian giác
ngộ và thời gian xuất gia thì Tôn
giả Kiều-Trần-Như đắc quả Tu-đà-huờn
và xuất gia Tỳ-khưu vào
ngày rằm tháng 6, tức là
ngày đức Phật thuyết bài pháp đầu tiên
tại vườn nai ở Isipatana.
Vào bốn ngày liên tiếp kế sau, cả bốn vị còn
lại cũng đã
giác ngộ và đắc quả Tu-đà-huờn
tuần tự như sau: Ngài Vappa (16/6), Ngài
Bhaddiya (17/6), Ngài Mahānāma
(18/6) và Ngài
Assaji (19/6).
Đến ngày hôm sau (20/6), đức Phật đã
thuyết bài Kinh Vô Ngã
Tướng (Anattalakkhaṇasutta) và sau thời pháp thì
cả năm vị đều đắc
được thánh quả A-la-hán.
Lúc bấy giờ, trên thế gian đã có được
sáu vị Thánh vô
lậu.
Là vị đệ tử đầu tiên trong các đệ tử, tại Kỳ Viên Tịnh Xá (Jetavana
vihàra), Tôn giả Koṇḍañña được
đức Phật tán dương là
vị đệ nhất thâm niên
như sau:
“Etadaggaṃ, bhikkhave, mama sāvakānaṃ
bhikkhūnaṃ rattaññūnaṃ
yadidaṃ aññāsikoṇḍañño -
Trong các đệ tử Tỷ-kheo đã lâu
ngày của Ta, này
các Tỷ-kheo, tối thắng là Aññāsikoṇḍañño”[5].
Trong hội chúng Tăng, tôn
giả được xem là vị Trưởng lão
thâm niên nhất, là
vị xuất gia đầu tiên trong Giáo
Pháp của đức Phật nên
Tôn giả chỉ ngồi sau nhị vị Thượng thủ Thinh văn.
Nhị vị rất kính trọng Ngài Trưởng lão
nên dù phải ngồi trước nhưng hai vị
vẫn không thoải mái vì điều
đó. Bởi thế, Tôn giả biết được
nên đã
xin phép đức Thế Tôn đi đến
lưu trú tại hồ Maṇḍākinī ở
Chaddantavana để cho hai vị đại thinh văn thuận tiện hơn trong việc hầu cận thế
tôn và hướng dẫn tăng chúng[6].
Ngài sống tại Chaddanta suốt 12 năm
và được thiên
tử Nāgadatta phục vụ cùng
với bầy voi rừng tám ngàn con hộ độ
rất chu đáo trong suốt thời gian ngụ tại đây.
Một lần nọ, tôn giả đã nhận lời thuyết pháp cho vua trời Đế Thích
(Sakka) nghe. Khi bài pháp chấm dứt, Đế Thích tỏ ra vui mừng khôn tả, và Đế
Thích tán dương rằng: Nghe những giáo lý của Ngài nói, tôi có cảm tưởng mình được
nghe chính Đức Phật thuyết.
673. Ta bội phần
hân hoan, Ðược nghe pháp vị lớn,
Pháp được giảng
ly tham, Hoàn toàn không chấp thủ.[7]
Tôn giả Vaṅgisa, một
đệ tử ưu tú khác của đức Phật cũng đã từng tán dương đức hạnh của ngài Aññākoṇḍañño,
một cách long trọng, trước sự chứng minh của Thế Tôn, rằng:
Sau đức Phật hiện
tại, Trưởng lão được chánh giác,
Chính là Koṇḍañño,
Nhiệt tâm và tinh cần,
Chứng được an lạc
trú, Sống viễn ly liên tục,
Thực hành lời
Sư dạy. Ðệ tử chứng được gì,
Tất cả Ngài chứng
được, Nhờ tu học tinh tấn,
Ðại uy lực Ba
minh, Thiện xảo tâm tư người.
3. Viên tịch :
Trải qua 12 năm, Tôn giả nhận thấy tuổi thọ đã
sắp mãn nên khởi lên ý
nghĩa muốn đi về đảnh
lễ đức Thế Tôn lần cuối trước khi viên
tịch.
Tôn giả dùng thần thông bay về nơi đức
Phật đang ngự tại Trúc Lâm
tịnh xá (Veḷuvanavihāra) ở thành
Rājagaha (Vương Xá) để đảnh
lễ Thế Tôn lần cuối. Sau khi đảnh
lễ Thế Tôn xong, Trưởng lão đã
bay về rừng Chaddanta.
Ngài Trưởng lão đã
viên tịch trong đêm
ấy. Khi đàn voi hay tin vị Trưởng lão khả kính
viên tịch, chúng đã đem
những cành hoa đến viếng nhục thể của Ngài
và thỉnh nhục thể của Ngài
lên lưng voi và đi khắp rừng Chaddanta với bầy
voi tám ngàn con.
Chư thiên và chư phạm thiên
hay tin cũng đến để
tham dự lễ trà tỳ nhục thân
của Ngài. Mỗi vị cúng dường một khoanh trầm hương.
Tôn giả Anuruddha hay tin cũng đã
tháp tùng với chư Tăng
bay đến Chaddanta có mặt trong buổi lễ trà tỳ.
Sau buổi lễ trà tỳ, Xá
lợi quý báu của vị Trưởng lão
thâm niên trong Giáo
Pháp được Tôn giả Anuruddha bọc trong một
tấm vải và mang về trình lên đức
Thế Tôn. Và tự tay Thế Tôn đã
an trí xá lợi ấy vào
trong một cái tháp bằng bạc. Giáo sử Ấn-Độ
cũng ghi rằng, ngài Buddhaghosa , tác giả cuốn Thanh Tịnh Đạo (Visuddhimagga),
nhiều thế kỷ sau khi Phật nhập diệt, ngài đã xác nhận vào thời của ngài, bảo
tháp kỳ diệu ấy vẫn còn[9].
5. Kệ ngôn :
Nhiều kệ ngôn, do tôn giả thốt ra được ghi lại trong Theragāthā gồm
15 bài kệ. Hầu hết nội dung những kệ ngôn ấy đều khuyên nhủ chư đồng đạo và người
đời, nên tinh tấn giữ thân tâm trong sạch, chớ dễ duôi, vì vô thường không cho
phép kẻ lười biếng, có thể tiến hóa.
674.
Trên thế giới đất tròn,
Nhiều màu sắc hình
tướng,
Làm
say đắm tâm tư, Ta nghĩ là
như vậy,
Tướng
tịnh rất hấp dẫn, Liên hệ đến
tham dục.
675.
Như gió thổi tung bụi, Ðược
mây trấn áp
xuống,
Các
tư duy lắng dịu, Khi thấy, với trí
tuệ.
676.
Mọi hành là vô
thường, Khi thấy với trí tuệ,
Vị
ấy nhàm chán
khổ, Ðây con đường
đến tịnh.
677.
Mọi hành là đau
khổ, Khi thấy với trí tuệ,
Vị
ấy nhàm chán
khổ, Ðây con đường
đến tịnh.
678.
Mọi pháp là vô
ngã, Khi thấy với trí
tuệ,
Vị
ấy nhàm chán khổ, Ðây
con đường đến
tịnh.
679.
Trưởng lão Koṇḍañña,
Giác ngộ bởi giác
ngộ,
Ðã
sắc bén thoát
ly, Ðoạn tận sanh và
chết,
Và
đời sống Phạm hạnh, Ðược hoàn
toàn viên
mãn.
680.
Hoặc bộc lưu, bẫy mồi, Hoặc cột trụ vững chắc,
Ngọn
núi khó
phá hoại, Sau khi chặt phá
xong,
Cột
trụ và bẫy mồi, Chặt tảng đá
khó phá,
Hành
thiền, vượt bờ kia, Thoát khỏi Ma trói
buộc.
681.
Tỷ-kheo hoảng hốt động, Ði đến
các bạn ác,
Chìm
trong bộc lưu lớn, Bị sóng lớn ngập tràn.
682.
Bậc trí không hoảng hốt, Không
dao động, thận trọng,
Các
căn khéo chế ngự, Làm bạn với kẻ thiện,
Bậc
trí tuệ như vậy, Có
thể đoạn đau
khổ.
683.
Một người đen, gầy mòn,
Yếu ốm, đầy đường
gân,
Tiết
độ trong ăn
uống, Tâm tư không
ưa não.
684.
Trong rừng núi rộng lớn, Bị muỗi ruồi đốt
cắn,
Như
con voi lâm trận, Ta chánh
niệm, chịu đựng.
685.
Ta không thích thú chết, Ta không
thích thú
sống,
Ta
chờ thời gian đến, Như thợ làm
việc xong.
686.
Ta không thích thú chết, Ta không
thích thú
sống,
Ta
chờ thời gian đến, Tỉnh giác,
giữ chánh niệm.
687.
Ðạo Sư, ta hầu hạ, Lời Phật dạy, làm
xong,
Gánh
nặng, đặt xuống thấp, Gốc sanh hữu, nhổ sạch.
688.
Vì mục đích xuất gia, Bỏ nhà,
sống không nhà,
4. Câu chuyện tiền thân :
Vào thời kỳ giáo pháp
của đức Phật Padumuttara, tiền thân
của Ngài Koṇḍañña
là một vị gia chủ giàu
có ở kinh thành Haṃsavatī.
Gia chủ là một vị cận sự nam thuần thành,
có niềm tin nơi Tam Bảo, thường đến
chùa nghe pháp.
Một lần nọ, đức Phật Padumutta tuyên
bố cho toàn thể chúng Tỳ-khưu
về một vị trưởng lão với địa vị là “Vị
chứng đạt tứ thánh đế đầu
tiên trong giáo pháp,
và cũng là
vị xuất gia đầu tiên trong giáo
pháp này”. Khi biết được
như thế, vị gia chủ cũng ước mong đạt đến
địa vị như vị ấy như Ngài
trưởng lão vào thời kỳ
của một vị Phật ở tương lai. Vì thế, gia chủ đi đến
đảnh lễ Thế Tôn và
thỉnh Ngài cùng với chư Tăng
đến tư gia để cúng
dường vật thực vào ngày mai. Thế Tôn
chấp nhận lời thỉnh mời bằng sự im lặng.
Sáng hôm sau, khi đức Như Lai cùng với chúng Tỳ-khưu đệ
tử đi đến tại tư gia của vị gia chủ
thọ thực. Ông đã
tiếp đón Thế Tôn cùng
với chư Tăng một rất là chu đáo
và long trọng. Sau khi cúng
dường Thế Tôn và chư Tăng
bằng những vật thực hảo hạng loại cứng, loại mềm, ông
rất hoan hỷ với phước báu mình tạo nên muốn cung thỉnh đức
Thế Tôn và chư Tăng
đến tư gia thêm sáu
ngày nữa để trai tăng
cúng dường. Thế Tôn im lặng chấp nhận lời thỉnh
cầu ấy.
Vị gia chủ đã làm phước cúng
dường trọng đãi liên tục bảy ngày
với những vật thực hảo hạng đắt tiền. Vào ngày thứ bảy, sau khi Thế Tôn
và các vị Tỳ-khưu
đã thọ thực xong, ông đã cúng
dường một bộ Tam y quý giá đến đức
Phật, mỗi một vị tỳ-khưu cũng được
cúng dường một bộ tam y quý
giá như thế.
Sau khi cúng dường đã
hoàn tất, vị gia chủ đến
quỳ đảnh lễ đức
Thế Tôn và cung kính
bạch rằng :
- Bạch đức Thế Tôn, với phước báu
con đã tạo được do sự cúng
dường trong bảy ngày vừa qua, con mong sẽ đạt
được địa vị là
vị Tỳ-khưu chứng đạt Thánh
đế đầu tiên
trong Giáo Pháp, đồng
thời là vị xuất gia đầu tiên
trong Giáo Pháp của một vị Phật trong tương lai.
Sau khi nghe lời phát nguyện của vị đại
thí chủ này, Thế Tôn
quán xét duyên
lành và thấy rằng nguyện vọng này
sẽ được thành tựu nên
Ngài đã
tuyên bố:
- Này gia chủ, từ kiếp trái đất
này trở đi đến
100 kiếp về sau, ông sẽ trở thành vị tỳ-khưu
chứng đạt tứ Thánh đế đầu
tiên trong Giáo Pháp
và cũng là
vị Tỳ-khưu xuất gia đầu tiên
trong Giáo Pháp của đức
Phật Gotama.
Đó là lời tiên tri xác chứng của đức
Thế Tôn Padumutta.
Vào thời kỳ của đức Phật Vipassī,
tiền thân của Ngài Koṇḍañña được
sanh làm con trai của một vị trưởng giả ở kinh thành
Bandhumatī. Ngài tên
là Cūlakāḷa[11]
và có một người anh trai tên
là Mahākāḷa. Hai anh em được
giao cho cai quản một thửa ruộng lớn để trồng lúa
sāli.
Một hôm, Cūlakāḷa
ra ngoài thăm ruộng thì
thấy lúa đang ngậm sữa nên
có ước muốn đem lúa đang
ngậm sữa này để nấu và cúng
dường đến đức Phật và
chư Tăng. Ông liền đi đến
gặp anh của mình để bàn
bạc nhưng người anh không đồng ý
theo như lời bàn bạc của mình. Người em cứ nằng nặc đòi
làm cho bằng được nên
cả hai đi đến quyết định
là sẽ phân đôi
thửa ruộng ra, một phần của người anh Mahākāḷa và
một phần của người em, phần ruộng của người nào thì
người đó quản lý và
muốn làm gì làm,
không ảnh hưởng đến phần ruộng của người khác.
Chia cắt ruộng xong, người em liền cho người cắt lúa đem
về và nấu thành cơm sữa cùng
với những loại gia vị hảo hạng để cúng
dường vật thực đến đức Phật và
chúng Tỳ-khưu Tăng.
Sau khi Thế Tôn đã
thọ thực xong, vị gia chủ Cūlakāḷa liền quỳ
xuống đảnh lễ Thế Tôn và
phát nguyện rằng :
- Bạch Thế Tôn, do phước báu cúng
dường con đã tạo, xin cho con đắc
được pháp cao thượng trước nhất trong
Giáo Pháp của vị Phật tương lai.
Đức Phật chúc phúc cho gia chủ được
mau như ý nguyện. Và sau đó,
gia chủ Cūlakāḷa đi
thăm ruộng thì thấy lúa
non ngậm sữa đầy cả cánh đồng
y như ban đầu. Ông rất hoan hỷ khi thấy sự phi
thường này. Cứ như thế, khi lúa
trổ bông thì ông dâng
cúng những bông lúa đầu
tiên. Khi gặt lúa thì ông
dâng cúng những lúa
gặt đầu tiên. Khi đập
lúa thì ông dâng
cúng lúa đập
đầu tiên. Khi quạt lúa
thì ông dâng
cúng lúa được
quạt đầu tiên. Khi lúa được
cất vào kho thì ông dâng
cúng lúa vào
kho đầu tiên. Và vì
vậy, trong một mùa lúa mà
gia chủ đã cũng dường những thành
quả đầu tiên đến
đức Phật và Tăng
chúng. Trong những lần ấy, chỗ lúa đem cúng dường
lại phát sanh thêm đến
ông y như cũ nên
mùa lúa ấy ông
đã được một vụ mùa
hết sức bội thu.
Do phước báu và duyên
lành hội đủ, vào
thời kỳ giáo pháp
của đức Phật Gotama, người em Cūlakāḷa
chính là Ngài
trưởng lão Koṇḍañña,
còn người anh Mahākāḷa chính
là Ngài Subhadda –
vị Thánh đệ tử cuối cùng
của đức Thế Tôn, Ngài đức
quả A–la–hán vào đêm
Rằm tháng tư, trước khi đức
Thế Tôn viên tịch Níp-bàn.
Theo Apadāna –
Thánh nhân ký sự ghi lại, tiền kiếp của tôn giả Koṇḍañña,,
cũng vào thời đức Phật Pudumattara, đã cúng dường bữa ăn đầu tiên đến đức Phật,
sau khi Ngài vừa chứng đắc quả vị Toàn Giác.[12]
[1]
Bảy vị còn lại là các vị trưởng lão bà-la-môn tinh thông tướng số, tên các vị ấy
là Rāma, Dhaja, Lakkhaṇa, Mantī, Bhoja, Suyāma, Sudatta
[2]
D.14 - Trường Bộ Kinh, Kinh Đại Bổn.
[6]
AA.i.84; SA.i.216.
[8]
S.i.193 (tương ưng bộ kinh 1, tương ưng trưởng lão vaṅgīsa, phần koṇḍañña)
[9]
SA.i.219
[12]
Ap.i.48. Tiểu Bộ Kinh, Thánh Nhân Ký Sự, Phẩm Đức Phật, Trưởng Lão Ký Sự, Ký Sự
Về Trưởng Lão Aññakoṇḍañña.
0 nhận xét