Câu chuyện
hiện tại:
Một thuở nọ, khi Thế Tôn trú
tại thành Xá Vệ, vào ngày trai giới, các cư sĩ thức dậy thật sớm, phát nguyện
hành trì giới luật, bố thí và sau khi thọ trai, họ đem hương hoa đến tịnh
xá Kỳ-Viên, gặp thời thuyết Pháp họ đều ngồi xuống một bên nghe giảng.
Bậc Đạo Sư đến tại
Chánh Pháp đường ngồi xuống sàng tọa được trang hoàng dành cho đức
Phật xong, liền nhìn xuống hội chúng Tỷ-kheo.
Lúc bấy giờ đức Như Lai
thường muốn đàm đạo với một vài vị này hay vị kia trong hội chúng, khi bài
thuyết giảng có liên quan đến họ, vì thế vào dịp này, Ngài biết rằng bài
Pháp thoại liên quan đến các bậc Đạo Sư ngày xưa sắp được thuyết
giảng cho các cư sĩ, nên trong khi đàm đạo với họ, Ngài hỏi:
- Này các cư sĩ, các ông có
hành trì trai giới chăng?
Khi các cư sĩ đồng
thanh đáp có, Ngài bảo:
- Tốt lành thay! Tốt lành
thay! Này các cư sĩ, tuy nhiên ngày nay các ông có một vị Phật làm Đạo Sư
như Ta và hành trì trai giới thì không phải là chuyện lạ gì, vì các bậc hiền trí
ngày xưa, chưa có bậc Đạo Sư nào, cũngđã từ bỏ mọi vinh quang thế tục và
giữ ngày trai giới.
Nói xong, theo lời thỉnh cầu
của các cư sĩ, Ngài kể một chuyện quá khứ về bậc đại hiền trí Bhūridatta.
Câu chuyện
tiền thân: Bhūridatta Jātaka (Jā.543)
Ngày xưa, khi vua Brahmadatta trị vì thành Ba-la-nại, ngài
phong cho con làm phó vương. Nhưng khi ngài thấy thái tử đạt vinh quang lừng lẫy, ngài lạiđâm ra hoài nghi một ngày kia thái tử sẽ chiếm trọn giang sơn. Vì thế
ngài đày con đi biệt xứ và chỉ được trở về khi phụ vương đã băng hà. Thái tử
vâng lệnh, giã từ vua cha ra đi
đến vùng núi Yamunā dựng một túp chòi lá nằm giữa dòng
sông giáp bờ biển và sống bằng rau quả qua ngày. thái tử đắp y sống như
là một vị ẩn sĩ nhưng nội tâm vẫn còn bi dục vọng chi phối, vì thế chẳng bao
lâu chàng bị cám dỗ bởi một long nữ, cả hai ăn ở với nhau có được hai đứa con
là Sāgara Brahmadatta và Samuddajā.
Lúc vua cha băng hà, Thái tử Brahmadatta về lại triều cùng với hai
con, còn vợ chàng là một long nữ nên trở lại cảnh giới của loài rồng. Một hôm,
Sāgara Brahmadatta và Samuddajā thấy con rùa Cittacūla nên hoảng sợ. Cả hai trình bạch với vua cha và nhà vua
truyền bắt thả rùa xuống vực xoáy của sông Yamunā như một loại hình phạt rất nặng
nề. Theo dòng nước xoáy, rùa vô tình đến cung long vương Dhataraṭṭha. Bị thẩm vấn, rùa xảo
quyệt đáp rằng được triều đình Benares cử xuống cầu hôn long vương cho công
chúa Samuddajā. Sứ giả của long vương được gởi lên Benares để chuẩn bị hôn lễ. Bàng
hoàng và phẫn nộ, vua cha Brahmadatta chối từ thì bị long vương bao vây kinh thành
Benares để trả thù. Nhằm mục đích tránh tang thương vì nạn chiến tranh, công
chúa Samuddajā chấp nhận hy sinh thân mình và được gả cho long vương
Dhataraṭṭha, nhưng nàng không biết mình đang sống trong cõi Nāga, vì theo lệnh long
vương, tất cả đều hiện thân làm người. Samuddajā sanh được bốn con: Sudassana, Datta (Bồ-tát), Subhaga và Ariṭṭha
(Kāṇariṭṭha) và còn có thêm Accimukhī là con riêng của long vương.
Bồ-tát Datta thường hay đến viếng Thiên vương Virūpakkha trị vì cõi Nāga và một hôm
ngài đi cùng Đại Thiên vương đến viếng Thiên chủ Sakka. Một ngày kia, Thiên
vương Virūpakkha cùng với hội chúng lên cảnh giới chư Thiên để chầu Thiên chủ Sakka, một vấn đề được đưa ra đàm dạo nhưng không có ai trong chư Thiên giải đáp được ngoại trừ đức bồ-tát
lúc ấy đang ngồi trên bảo tọa. Thế rồi
Thiên Đế tỏ lòng hâm mộ ngài, đem
tặng hoa quả của cõi trời và Thiên chủ gọi ngài là Bậc
Đại Trí Datta (Bhūridatta). Thấy
vẻ huy hoàng của Thiên triều, Datta muốn mau được sanh lên cảnh giới này nên
phát nguyện trở về cõi Nāga của cha để tu tập công hạnh. Chàng lên tổ kiến nằm
để nghiêm trì giới hạnh và chờ được các long nữ đưa về cõi Nāga.
Lúc bồ-tát Bhūridatta nằm trên tổ kiến, có người thợ săn cùng với
đứa con trai tên Somadatta leo
lên cây gần đó rình bắt nai. Họ nghe tiếng nhạc và ca hát của các long nữ dâng
sàng toạ cho Bhūridatta nên tìm đến. Bhūridatta hiện làm người và nói thật gốc
gác của mình. Sợ họ báo cho người bắt rắn biết, sẽ cản trở việc trì giới cùa
mình, Bhūridatta đề nghị đưa hai cha con về cõi Nāga và thiết đãi họ thật trịnh
trọng để họ không báo cho người bắt rắn biết.
Sau khi sống một năm trong huy hoàng của cảnh giới Nāga, hai cha
con thợ săn bất toại nguyện vì thiếu công đức, nên muốn trở về trần thế. Họ lấy
lý do muốn tu khổ hạnh để ra đi. Bhūridatta ban cho người thợ săn viên ngọc như
ý (ban mọi điều ước), nhưng ông từ chối. Lên trần thế hai cha con thấy lại hồ
xưa nên xuống tắm. Lúc lên bờ thiên y lộng lẫy biến mất chỉ còn lại áo quần
nghèo khổ của ngày trước trên thân, hai cha con trở lại nghề săn nai như lúc
trước.
Trong rừng, hai cha con gặp một Bà-la-môn tên Ālambāyana, chủ viên ngọc Nāga mà hai
người không nhận lúc trước. Bà-la-môn kể lại chuyện mình được ngọc. Ông bỏ kinh
thành Benares vô rừng trốn nợ vì quá nghèo. Tại đây ông gặp đạo sĩ Kosiya, người mà Điểu vương Garuḍa dạy
cho thần chú Ālambāyana để chinh phục Nāga. Đạo sĩ sống trong am thất cạnh cây
cổ thụ. Một hôm, Garuḍa bắt một Nāga đem về đây. Rắn Nāga quấn mình vào cổ thụ
mong thoát thân, nhưng vẫn bị Điểu vương bay lên mang đi cùng với cây cổ thụ. Lúc
ăn thịt Nāga xong, Điểu vương thả xác xuống và nghe đánh rầm một tiếng lớn. Thì
ra cây cổ thụ bị nhổ đi mà Điểu vương không hay biết. Nghĩ mình đã gây tai hại
cho vị Đạo sĩ, Điểu vương trở lại đáp đền bằng cách dạy cho Đạo sĩ thần chú
Ālambāyana. Rồi Đạo sĩ dạy thần chú lại cho người Bàlamôn trốn nợ mong giúp ích
ông. Bà-la-môn này được gọi là Ālambāyana.
Một hôm Bà-la-môn Ālambāyana đến chỗ
của Nāga, vừa đi vừa đọc chú đang học. Các Nāga giữ ngọc hoảng sợ, bỏ chạy quên
đem ngọc theo. Ālambāyana lượm được ngọc quý.
Thấy ngọc quý của Bà-la-môn Ālambāyana, cha của Somadatta lập mưu
đoạt. Ông bày ra những thảm hoạ do ngọc đem lại nếu không đủ ân đức gìn giữ. Ngoài
ra, nếu Ālambāyana trao ngọc cho ông, ông sẽ chỉ chỗ của long vương. Người con Somadatta
phản đối sự phản bội của cha nên bỏ lên núi ẩn tu.
Ālambāyana cùng cha của
Somadatta đi bắt Nāga Bhūridatta. Tới nơi, Ālambāyana giữ lời nên thảy viên
ngọc cho cha của Somadatta, ngọc vuột khỏi tay rớt xuống đất và biến mất vào
cảnh giới Nāga. Cha của Somadatta buồn rầu vì mất sạch cả ba thứ: ngọc quý, con
và tình bạn. Còn Ālambāyana đem Nāga Bhūridatta về phun thuốc, bẻ xương, bỏ vô
giỏ đem ra làm trò cho hội chúng xem và làm giàu. Dầu có bị hành hạ thế nào
Bhūridatta cũng không phẫn nộ vì sợ bị đứt giới.
Ngày Bhūridatta bị bắt, Hoàng hậu Samuddajā nằm mộng hãi hùng. Tháng
sau không thấy con, bà đau sầu thảm thiết và cho đi tìm. Kāṇariṭṭha lên cõi
trời, Subhaga lên Himavā, Sudassana và Accimukkhī xuống cõi thế. Sudassana (giả
dạng làm đạo sĩ) và Accimukkhī (làm con cóc) gặp Bhūridatta đang chuẫn bị làm
trò cho vua Benares xem. Sudassana thi triển thần thông: gọi cóc nhả nọc độc
lên tay mình; tuyên bố nọc này sẽ tiêu diệt vương quốc nếu rơi xuống đất; đề
nghị đào ba hố dưới đất; rót nọc vô ba hố; lửa phừng cháy từ hố thứ nhứt lan
đến hố thứ ba; Ālambāyana đứng gần đó bị hơi nóng của nọc độc làm da biến dạng
và thành tên hủi trắng. Kinh hoàng, Ālambāyana thả Nāga ra. Bhūridatta bước ra
khỏi giỏ, hiện hình sáng loà, mang đầy châu ngọc. Sudassana và Accimukhī cũng
vậy. Sudassana tâu vua lai lịch của anh em ông, nhà vua vui mừng khôn xiết và
đưa các cháu vô cung thiết đãi trọng thể. Sau đó, Bhūridatta trở về cõi Nāga;
nhà vua ngự theo và lưu lại đó vài hôm trước khi trở lại Benares.
Lên đường tìm anh trên Himavā, Subhaga gặp cha của Somadatta, bắt
ông đưa về cõi Nāga trị tội. Kāṇāriṭṭha gác cửa phòng của Bhūridatta đang nằm
dưỡng bệnh, thấy vậy trách anh sao đối xử thô bạo với một Bà-la-môn, và thuyết
cho hội chúng Nāga biết về các tế lễ hy sinh và học tập kinh Vệ-đà của người Bà-la-môn.
Sợ hội chúng rơi vào tà giáo, Bhūdaritta cho gọi em vào và giảng giải về chánh
kiến.
Một thời gian sau, Bhūridatta cùng tuỳ tùng đi viếng tổ phụ
Brahmadatta, nay làm ẩn sĩ. Có long vương Dhataraṭṭha, Hoàng hậu Samuddajā và
các vương tử khác cùng ngự theo. Họ gặp lại Sāgara-Brahmadatta và đại gia đình
hội ngộ. Sau đó, Samuddajā và gia đình trở về cõi Nāga, sống an lạc, hạnh phúc
đến ngày mãn tuổi thọ.
Nhận diện
tiền thân:
Khi Pháp thoại chấm dứt, Bậc Đạo
Sư dạy: “Như vậy các vị Thánh đệ tử, các bậc hiền nhân ngày xưa, trước
khi đức Phật ra đời, đã từ bỏ mọi vinh quang của quốc độ Nàga và
trang nghiêm hành trì các công hạnh trong ngày trai giới”.
Rồi Bậc Đạo Sư nhận diện
tiền thân như sau: gia tộc của Đại vương Brahmadatta là song thân của Thế
Tôn, Devadatta là gã Bà-la-môn hạ đẳng Ālambāyana, tôn giả Ānanda là
Somadatta, Tỳ-khưu ni Uppalavaṇṇā là Accimukhī, tôn giả Sāriputta là Sudassana,
tôn giả Moggallāna là Subhaga, Sunakkhatta là Kānāriṭṭha và Thế Tôn chính là
bậc Đại trí Bhūridatta.
Thiện nhân giới hạnh nghiêm trì
Nói làm suy nghĩ luôn khi giữ gìn
Nuôi ý lực dưỡng tâm lành
Cắt dây kiết phược phá thành mê si
Hy sinh ngoại vật tứ chi
Hoặc luôn mạng sống sá gì huyển thân
Phật xưa pháp độ vẹn toàn
Chúng con nguyện bước theo chân Ðại Từ.
0 nhận xét